Chế độ dinh dưỡng lứa tuổi vị thành niên

Bởi sharingdo

Một trong những giai đoạn quan trọng nhất quyết định đến sự phát triển cả thể chất và tinh thần tương lai của mỗi con người là giai đoạn bào thai, trẻ dưới 2 tuổi và tuổi vị thành niên (10 – 18 tuổi).

Nhiều điều tra và nghiên cứu trên quốc tế và Nước Ta cho thấy những trẻ bị suy dinh dưỡng khi nhỏ, đặc biệt quan trọng trong 2 năm đầu sau khi sinh sẽ có rủi ro tiềm ẩn cao trở thành những trẻ tuổi vị thành niên bị thấp còi và không có năng lực đuổi kịp tăng trưởng so với những bạn cùng trang lứa mà không bị suy dinh dưỡng ( SDD ) khi nhỏ .
Những nữ vị thành niên thấp còi sẽ rủi ro tiềm ẩn tăng trưởng thành những phụ nữ thấp bé nhẹ cân và hậu quả là sinh ra những trẻ bị SDD bào thai ( có cân nặng sơ sinh thấp ). Những trẻ có cân nặng sơ sinh thấp ( dưới 2.500 g ) lại có rủi ro tiềm ẩn SDD. Vì vậy, dinh dưỡng hài hòa và hợp lý và lối sống lành mạnh cần được khuyến khích ở mọi lứa tuổi .

Chương trình can thiệp dinh dưỡng ở Việt Nam hiện nay mới tập trung ưu tiên cho hai đối tượng là bà mẹ và trẻ em. Trong những năm gần đây, các nhà dinh dưỡng đã quan tâm đến trẻ vị thành niên, để giúp cơ thể trẻ phát triển hoàn thiện trước khi làm mẹ và đó là một phần của vấn đề “dinh dưỡng sớm”. Chế độ can thiệp dinh dưỡng trong giai đoạn trẻ vị thành niên hết sức quan trọng, vì lứa tuổi này có tốc độ phát triển rất nhanh cả về chiều cao và cân nặng, các biến đổi về tâm, sinh lý, nội tiết, sinh dục…

Chế độ dinh dưỡng lứa tuổi vị thành niên

Cân nặng trung bình trẻ vị thành niên tăng từ 3 – 5 kg / năm, chiều cao tăng từ 4 – 7 cm / năm, trẻ trai tăng trưởng nhiều hơn trẻ gái. Vì vậy, chế độ dinh dưỡng của trẻ vị thành niên yên cầu nhu yếu cũng rất cao cho sự tăng trưởng cũng như hoạt động giải trí, do vậy trẻ thường ăn không biết no .
Chế độ can thiệp dinh dưỡng trong giai đọan trẻ vị thành niên rất là quan trọng, vì lứa tuổi này có vận tốc tăng trưởng rất nhanh cả về chiều cao và cân nặng

Để bảo vệ nhu yếu dinh dưỡng cho sự tăng trưởng lứa tuổi này, trước hết là yếu tố nguồn năng lượng từ 2000 – 2.300 kcalo / ngày / nữ và 2.100 – 2.800 kcalo / ngày / nam tùy theo từng độ tuổi mà nhu yếu khác nhau. Để phân phối đủ nhu yếu, trẻ cần tối thiểu ăn 3 bữa / ngày, ăn đủ no và đủ chất dinh dưỡng .
Trẻ vị thành niên là lứa tuổi đang học tập thi tuyển, nếu phải thức khuya học nhiều cần cho trẻ ăn thêm bữa phụ như : sữa, hoa quả … Một số trẻ nữ thường ăn ít để giữ thân hình, dáng vóc điều đó làm hạn chế sự tăng trưởng .

Contents

Đạm:

Để bảo vệ cho sự tăng trưởng của khung hình, nhu yếu về chất đạm lứa tuổi này rất là quan trọng, hàng ngày nhu yếu chất đạm khoảng chừng 70 gam / nam và 60 gam / nữ. Tỷ lệ chất đạm động vật hoang dã ≥ 35 % tổng số chất đạm. Năng lượng từ chất đạm phân phối chiếm 17 % tổng năng lượng của khẩu phần. Nhu cầu chất đạm lứa tuổi vị thành niên thiết yếu cho vận tốc tăng trưởng, vì chất đạm giúp tạo nên cấu trúc của tế bào, tạo nên những nội tiết tố và phân phối năng lực miễn dịch khung hình. Nguồn đạm động vật hoang dã cung ứng cho bữa ăn từ : thịt, cá, trứng, sữa, tôm, cua … nguồn đạm thực vật từ đậu đỗ, vừng, lạc …

Vitamin A:

Cần thiết cho sự tăng trưởng và tăng trưởng thông thường, tăng cường năng lực miễn dịch giảm tỷ suất nhiễm trùng và tử trận .

Vitamin A có trong thức ăn động vật hoang dã : gan, trứng, sữa … ngoài những thức ăn thực vật phân phối nguồn caroten như rau xanh, giấc, qủa màu vàng. Nhu cầu vitamin A lứa tuổi vị thành niên là 600 mcg / ngày .

Chất béo:

Nhu cầu chất béo hàng ngày từ 60 – 70 gam, chất béo từ nguồn gốc động vật hoang dã và thực vật với tỷ suất cân đối là 70 % và 30 %. Năng lượng do lipit cung ứng trong khẩu phần khoảng chừng 25 %. Chất béo là nguồn cung ứng nguồn năng lượng, giúp hoà tan và hấp thu những loại vitamin tan trong dầu : vitaminA, E, D, K .

Ngoài các loại vitamin nhu cầu các khoáng chất cũng cần được quan tâm.

Chất sắt:

Sắt là thành phần của huyết sắc tố, tham gia vào quy trình luân chuyển oxy và là thành phần quan trọng của hemoglobin. Sắt trong khung hình cùng với protein tạo thành huyết sắc tố ( hemoglobin ), luân chuyển oxy, co2, phòng bệnh thiếu máu và tham gia vào thành phần những men oxy hóa khử .

Nhu cầu sắt của trẻ vị thành niên được cung ứng trải qua chế độ ăn giàu sắt, sắt có giá trị sinh học cao. Tuy nhiên, ở nước ta năng lực được tiếp cận những nguồn thức ăn động vật hoang dã có lượng sắt giá trị sinh học cao từ khẩu phần là rất thấp. Vì vậy, ngay từ khi bước vào tuổi vị thành niên cần uống bổ trợ thêm viên sắt hoặc viên đa vi chất hàng tuần. Nhu cầu sắt của trẻ vị thành niên là 12 – 18 mg / ngày / trai và 20 mg / ngày / gái .

Thức ăn giàu sắt có nguồn gốc động vật như: thịt bò, tiết bò, trứng gà, trứng vịt, tim lợn, gan gà,..

Can xi:

Cũng thiết yếu cho lứa tuổi dậy thì, vì tiến trình này vận tốc tăng trưởng chiều cao rất nhanh .
Nhu cầu can xi cùng với phospho nhiều để duy trì và hình thành bộ xương, răng vững chãi .
Canxi có nhiều trong sữa, những loại thủy, món ăn hải sản .

Bên cạnh đó, trẻ còn cần vitamin D để chuyển hóa can xi. Nhu cầu vitamin D tuổi vị thành niên là 5mcg/ngày.

Vitamin C:

Giúp hấp thu và sử dụng sắt, can xi và axít folic. Ngoài ra vitamin C còn có chức năng chống dị ứng, tăng khả năng miễn dịch, kích thích tạo dịch mật, bảo vệ thành mạch.

Vitamin C có nhiều trong những loại rau xanh, quả chín. Nhu cầu vitamin C tuổi vị thành niên là 65 mg / ngày .
Chế độ dinh dưỡng lứa tuổi vị thành niên là yếu tố quyết định hành động để trẻ tăng trưởng cả về độ cao, cân nặng và tăng trưởng đạt mức tối ưu khi trưởng thành. Khi trưởng thành có sức khỏe thể chất và thực trạng dinh dưỡng tốt ( cân nặng và chiều cao đạt mức tối ưu ) là điều kiện kèm theo để trở thành những ông bố, bà mẹ sau này sinh ra những đứa trẻ khoẻ mạnh trong tương lai. Trẻ vị thành niên có sức khỏe thể chất tốt là điều kiện kèm theo để lao động và học tập tốt, giúp ích cho mái ấm gia đình và xã hội tương lai .

You may also like

Để lại bình luận